Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2009

Nghị luận xã hội

Đề bài : Anh(chị) có suy nghĩ gì về câu nói nổi tiếng của Dacuyn: "Tất cả những gì có giá trị một chút tôi đều đã thu nhận được nhờ tự học".
Anh(chị) có suy nghĩ gì về con đường học vấn tới đây?
Bài soạn nháp:
Nhân loại biết ơn nhà bác học vĩ đại Đác-Uyn, cha để của học thuyết tiến hoá., đóng góp vô cùng giá trị cho cách hiểu đúng đắn về sự phát triển của loài người, thoát ra khỏi sự mê muội Cả nhân loại sững sờ trước bộ óc vĩ đại của ông, nhưng chính bản thân ông đã rất khiêm tốn khi phát biểu: "Tất cả những gì có giá trị một chút tôi đều đã thu nhận được nhờ tự học". Ý kiến của Đác-Uyn đã khẳng định tầm quan trọng của tự học với cá nhân và cả xã hội.
Học tập là quá trình tích lũy kiến thức, kinh nghiệm của nhân loại. Hoạt động học tập thường được hiểu là học từ trong sách vở, qua lời giảng của thầy cô giáo, học từ trong đời sống. Ngày nay, trong định hướng của tổ chức UNESCO, chúng ta đang hướng về xây dựng một xã hội học tập, trong đó vai trò tự học được nhấn mạnh như là yếu tố phát huy năng lực, tính tự chủ trong học tập của người học. Việc học không chỉ diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó mà gắn bó suốt đời với người học. Ý kiến của Đác-Uyn từ hàng trăm năm trước đã cho thấy ông đi trước thời đại và bản thân ông cũng chính là một tấm gương sáng trong việc tự học.
Việc học không chỉ đơn thuần là tiếp thu kiến thức mà còn gắn với ý thức của người học biết biến kiến thức thành kỹ năng, thành vốn sống, hành trang theo suốt hành trình đời người. Vì vậy chúng ta cần hiểu thấu đáo ý nghĩa hai tiếng "tự học" mà Đác-Uyn đã nói. Việc tự học không chỉ là yêu cầu của giáo viên với học sinh trong nhà trường mà chính là xuất phát từ nhu cầu tự thân của người học. quá trình tự học diễn ra ở mọi nơi, mọi chỗ. Có thể nói một cách khái quát là tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống: từ hiện tượng thiên nhiên, thực tiễn xã hội đều giúp ích cho con người mở mang tầm mắt, học được nhiều điều hay lẽ phải, bồi đắp cả kiến thức và tâm hồn. 
Đác-Uyn quả thật đã không khiêm tốn giả vờ khi khẳng định giá trị mà ông tạo nên cho đời sống này là thông qua việc tự học. Đó chính là quá trình lao động trí óc đầy vinh quang và trải qua nhiều khó khăn thử thách trong suốt cuộc đời nhà bác học. Nếu Đác-Uyn chỉ là một người thụ động nhồi nhét kiến thức sách vở, thiếu sự hoài nghi khoa học, không tìm tòi khám phá thì ông không thể nào vuợt lên những khó khăn trắc trở trong công việc của mình. Bên cạnh đó còn là niềm tin mãnh liệt vào chân lí khoa học mà ông đã khám phá, cùng với sự thận trọng cần thiết của một người làm khoa học, ông đã trải qua quá trình tự suy ngẫm, đối chiếu so sánh các kết quả, tổng hợp phân tích để đi đến kết luận đúng đắn. Tự học đòi hỏi một sự kiên trì nhẫn nại bên cạnh khả năng thu thập xử lý thông tin để sắp xếp thành hệ thống các luận điểm khoa học...Suy cho cùng, những việc làm hành động của nhà bác học chính là quá trình tự học có phương pháp, có định hướng.
Tất nhiên, muốn tự học tốt phải xuất phát từ một nền tảng kiến thức nhất định, có sự định hướng từ phía thầy cô giáo, nếu không quá trình tự học sẽ diễn ra khó khăn hơn, mất nhiều thời gian của người học hơn. Điều quan trọng hơn là trong quá trình tự học, bản thân người học phải hết sức kiên trì và đam mê, có như vậy mới kích thích khả năng tìm tòi khám phá chân lý. Tự học không phải là một quá trình mò mẫm mang tính chất may rủi mà phải tiến hành có hệ thống, có kế hoạch. Việc tự học có thể tìm nguồn từ sách vở, từ bạn bè, từ quan sát kiểm nghiệm trong thực tiễn.Không những thế, cần phải có một niềm tin vào chính bản thân để vượt qua những vướng mắc có thể gặp phải.
Tự học giúp chúng ta nâng cao trình độ, rèn luyện bản lĩnh tự vượt lên chính mình. Tấm gương của nhà bác học Đác-Uyn đã cho chúng ta thấy rõ: nếu như có đủ ý chí vươn lên trong cuộc sống, chúng ta hoàn toàn có thể thông qua con đường tự học để trưởng thành.

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2009

Văn hóa Bình Định - hình ảnh đất Tây Sơn

Võ Tây Sơn do đội biểu diễn bảo tàng Quang Trung trình diễn:

Trống trận Tây Sơn

Giao lưu văn học ở Hầm Hô - văn nghệ sĩ đi thăm thắng cảnh

Thứ Tư, 21 tháng 10, 2009

Tiếng cười trong ca dao

Bên cạnh mảng ca dao trữ tình, ca dao hài hước cũng phản chiếu một khía cạnh khác trong tâm hồn của người bình dân ngày xưa, chứa đựng tinh thần lạc quan, sức sống mạnh mẽ và tinh thần phản kháng của nhân dân. Không những thế, tiếng cười trong ca dao cũng chính là những uất ức bất bình , những thái độ ứng xử , điều chỉnh hành vi , hướng tới một cuộc sống tốt đẹp công bằng hơn.
Ca dao hài hước chứa đựng cái nhìn, thái độ, tình cảm của người bình dân trước các hiện tượng đời sống, mối quan hệ tình cảm giữa người với người. Không những thế tiếng cười còn là vũ khí tinh thần giúp họ vượt lên bao khó khăn của đời sống. Tiếng cười trong ca dao phong phú nhiều cung bậc, có khi là tiếng cười trào lộng dí dỏm, có khi là tiếng cười chua chát trước sự thật đáng cười đáng chán, cũng có khi là tiếng cười phản kháng trước thực trạng xã hội còn nhiều bất công ngang trái.
Từ thực tại còn nhiều vất vả cay cực, người bình dân đến với nhau trong tiếng đùa vui, mượn tiếng cười ngỏ bày tâm tình một cách ý vị:
Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn…
Chàng trai ngỏ lòng với cô gái bằng lối nói khoa trương để cho thấy ngay rằng anh đang đùa. Nhưng liệu có phải hoàn toàn là một lời nói đùa không? Có thể hình dung ra hoàn cảnh của đôi nam nữ yêu nhau qua bài ca dao : họ sống nghèo khổ nhưng vô cùng lạc quan. Lời đối đáp có chút tinh nghịch nhưng cũng thoáng chút ngậm ngùi cho phận nghèo. Ngôn ngữ phóng đại khoa trương khỏa lấp đi một sự thật mà người đời quen gọi là “nói khoác” thực ra đã mang một ý vị chua chát đả phá vào những hủ tục ngăn cách con người tìm đến với nhau. Chàng trai đã có những lễ vật dẫn cưới thật sang trọng: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò… nhưng cuối cùng lại là con chuột béo thật ấn tượng. Lí giải thật hợp tình hợp lẽ : con voi to đùng kia là hàng quốc cấm – phép nước  luật vua không cho phép, dẫn trâu dẫn bò  thì lo họ hàng nhà gái máu hàn, rút gân – chứng tỏ chàng trai là người “chu đáo” với đàng gái biết bao! Sợ cho nhà gái hay là một lời đay nghiến, mỉa mai những người đã nghĩ ra chuyện thách cưới ác nghiệt khiến cho đôi lứa phải chịu cảnh dở khóc dở cười. Con chuột béo là một thái độ đáp lại bằng cách giễu cợt cay chua. Nhưng lời đáp lại của cô gái dù đùa vui mà lại ẩn chứa một nỗi lòng đáng quí  :
Chàng dẫn thế em lấy làm sang
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang…
Ngầm chứa trong lời đáp là sự động viên chàng trai vững tâm để đi đến hạnh phúc. Vẫn là thách cưới nhưng chàng trai hoàn toàn có thể đáp ứng được bằng chính sức lao động của mình. Cái tinh tế trong lời cô gái vừa là phản ứng trước việc thách cưới phá ngang , vừa là mong mỏi chàng trai là người cần cù siêng năng xứng đáng với tấm tình của cô. Không những thế, cô còn đem tới lời nhắn nhủ  về sự cần kiệm: củ to mời làng, củ nhỏ mời họ, và không bỏ sót củ mẻ, củ rím, củ hà. Lời đáp khéo léo ấy đem lại niềm hy vọng và lạc quan về hạnh phúc.
Ca dao hài hước còn mang theo những suy ngẫm về thực trạng xã hội phong kiến vốn dành ưu ái đặc quyền cho nam giới. Vẫn là mô típ làm trai cho đáng nên trai nhưng không phải là lời ca ngợi vào khả năng “vá trời lấp bể” mà chỉ là :
Làm trai cho đáng sức trai
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng
Từ bản chất của những người yêu lao động, người bình dân phê phán và chế giễu những kẻ lười biếng mà huênh hoang. Ý nghĩahài hước toát ra từ hình ảnh đối nghịch : sức dài vai rộng mà lại khom lưng chống gối chỉ để gánh hai hạt vừng. Động tác kia chẳng khác nào mô phỏng hình ảnh các vị chức sắc quan lại chỉ giỏi khom lưng luồn cúi, chống gối quì lụy để tiến thân. Người bình dân chế giễu những kẻ vô tích sự ấy, mang tiếng là gánh vác sơn hà nhưng thực tế chẳng khác nào những bọn vô công rỗi nghề ăn bám người khác. Thật bất hạnh cho những ai vớ phải một ông chồng như thế! Ca dao cũng sẵn những lời ta thán của những người phụ nữ :
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo
Trong quan hệ gia đình, có lẽ phải gặp hoàn cảnh bất đắc dĩ thì người vợ mới có chuyện so sánh chồng mình với chồng người. Hình ảnh anh chồng thật thảm hại trong tương quan đi ngược về xuôi với sờ đuôi con mèo. Bất cứ người phụ nữ nào cũng mong muốn chồng mình giỏi giang cáng đáng việc quốc gia đại sự hay chí ít cũng là trụ cột gia đình. Còn anh chồng trong bài ca dao này cứ quẩn quanh xó bếp, nhu nhược hèn kém. Nhưng lời than thở giận hờn ấy không thay đổi được số phận. Than thở thế thôi, dẫu gì cũng vẫn là chồng em , vẫn là nghĩa tình duyên nợ với nhau. Đàng sau lời ca dao ấy là nỗi lòng trĩu nặng, phản chiếu một mong mỏi chồng mình cũng được bằng anh bằng em, để người vợ có thể mở mày mở mặt.
Trong ca dao không chỉ có tiếng cười chế giễu mà còn bao tiếng cười đầm ấm tình thương yêu gắn bó với nhau. Người bình dân biết cười đời và cũng biết cách cường điệu phóng đại những tật xấu của mình để tự cười mình. Không phải là tiếng cười thiên lệch dành cho nam giới mà cả giới nữ cũng có nhiều cái đáng cười. Điểm đặc biệt là tất cả những sự lệch chuẩn ấy đã thành cái đáng yêu trong một gia đình hạnh phúc:
Lỗ mũi em mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o…
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!
Chắc không người phụ nữ nào lại tự lôi ra tất cả những “thói hư tật xấu” của mình đầy đủ đến thế với một cách nói phóng đại tô đậm những cái ngược hoàn toàn với chuẩn mực “Công – Dung – Ngôn – Hạnh” phong kiến. Không hề gò mình ép khuôn vào một cách sống giả tạo gò bó, điều mong muốn của người bình dân là có một gia đình hạnh phúc, một sự thông cảm chia sẻ trong đời sống vợ chồng. Điệp khúc chồng yêu chồng bảo… không hề che giấu niềm tự hào có một người chồng tuyệt vời. Có lẽ các triết lí của các học giả đáng kính cũng rút tỉa ra từ  thực tại cuộc sống phong phú đáng yêu này mà thôi: “Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng thiếu nữ mà ở trong đôi mắt của kẻ tình si” (Kant). Người chồng yêu vợ như thế quả là hiếm có trong một xã hội vốn khắt khe với những chuẩn mực nặng nề, những qui tắc cứng nhắc . Không những thế, đó chính là sự điều chỉnh hành vi của người bình dân bởi lẽ không người phụ nữ nào lại muốn giữ những nét xấu trong mắt chồng. Cười vui là thế nhưng cũng có ý nghĩa cảnh tỉnh nhẹ nhàng cho việc giữ gìn hạnh phúc. Bởi lẽ chồng yêu thì hạnh phúc nhưng chồng ghét thì là tai họa, là tan vỡ.
Tiếng cười dân gian trong ca dao quả thật đã chứa đựng nghệ thuật sống của người bình dân ngày xưa. Tiếng cười ấy phản chiếu tinh thần của những người lao động luôn biết vượt lên hoàn cảnh, những bất công ngang trái, những khó khăn thực tại để lạc quan yêu đời. Tiếng cười ấy là sức sống tâm hồn khoẻ khoắn của những con người luôn ý thức giá trị bản thân, luôn mong muốn cuộc sống tốt đẹp công bằng.

Vẻ đẹp Đam Săn

Từ bao đời nay, người Ê-Đê đã cùng quây quần bên bếp lửa, nghe không biết chán từ đêm này sang đêm khác khan Đam Săn, bài ca về người tù trưởng anh hùng của dân tộc mình với những chiến công hiển hách trong xây dựng phát triển buôn làng và bảo vệ cộng đồng chống lại bao kẻ thù hung hãn. Trong những chiến công lẫy lừng ấy, ngất ngây lòng người vẫn là đoạn “Đánh thắng Mơ-tao Mơ-xây”, chứng tỏ tài năng, bản lĩnh, lòng dũng cảm phi thường và sức mạnh vô địch của Đam Săn
    Sở dĩ xảy ra cuộc chiến này là do mơ-tao Mơ-xây (tù trưởng Sắt) đã cướp Hơ-nhí – vợ của Đam Săn. Đối với người Ê-Đê theo chế độ mẫu hệ, việc bị kẻ thù cướp mất vợ là một nỗi sỉ nhục của cả cộng đồng. “Đánh thắng Mơ-tao Mơ-xây” là lần thứ hai Đam Săn phải chiến đấu với kẻ thù để giành lại người vợ, chứng tỏ sự hùng mạnh của Đam Săn. Chàng phải đối mặt với kẻ thù hung bạo và cũng có sức mạnh phi thường không kém. Hàng loạt những hình ảnh so sánh trong đoạn trích cho thấy rõ sự tương phản giữa Đam Săn với kẻ thù, làm nổi bật lên sự hào hùng của chàng và sự thảm hại của Mơ-tao Mơ-xây. Đó chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật đoạn trích này, tôn vinh vẻ đẹp người anh hùng Đam Săn .
    Vẻ đẹp Đam Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của mơ-tao Mơ-xây. Tù trưởng Sắt hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự  hiện diện của chàng. Hình ảnh Đam Săn cùng những bạn bè đồng minh của chàng hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh với khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp cùng khí thế hừng hực “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”. Hình ảnh so sánh thật đặc trưng đã làm đậm nét phi thường của người anh hùng. Tư thế ấy lại gắn liền hành động thách thức chặt ống tre thành ba khúc, xô đổ hàng rào hàm chứa sức mạnh tuyệt luân của chàng. Khi giáp chiến cùng Đam Săn, dù ngôn ngữ sử thi miêu tả mơ-tao Mơ-xây cũng rất đẹp, rất dũng mãnh nhưng vẫn lộ ra sự khiếp nhược trước Đam Săn. Lời nói củahắn với chàng lộ ra sự hèn nhát “đừng đâm ta lúc ta đang xuống nhé”. Đáp lại, Đam Săn đã bộc lộ sự khinh bỉ kẻ thù bằng tư thế đàng hoàng của mình: “Tao không thèm đâm mày trước lúc mày xuống! Ngay con heo nái nhà mày tao cũng có thèm chém đâu!”.
    Cuộc đối đầu của Đam Săn với mơ-tao Mơ-xây là giữa hai tù trưởng dũng mãnh. Phẩm chất anh hùng theo cách nhìn sử thi là ở sự chiến thắng bằng sức mạnh và sự can đảm. Cuộc đối đầu sinh tử  ấy không có chỗ dung thân cho kẻ nào hèn nhát hơn. Trong tình cảm tôn vinh người anh hùng của buôn làng, mọi cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của Đam Săn đều nổi bật, vượt trội hơn kẻ thù. Chúng ta cùng được chứng kiến màn thi tài múa khiên thú vị: mơ-tao Mơ-xây thể hiện rõ sự khoác lác khi lời nói của hắn được minh chứng bằng “tiếng khiên kêu lộc cộc, lộp cộp như tiếng những quả mướp đập vào nhau”, còn Đam Săn đã dập tắt nhuệ khí của hắn bằng sức mạnh phi thường trong màn múa khiên độc đáo. Ngôn ngữ sử thi khoa trương sức mạnh ấy ngang sức mạnh tự nhiên: “Một bước nhảy, chàng vượt qua mấy đồi tranh. Một bước lùi, vượt qua mấy đồi mía. Tiếng gió khiên rít vù vù như dông bão, cây cối nhà cửa ở xung quanh cũng nghiêng ngả”.  Lần múa khiên thứ hai của chàng còn ghê gớm hơn bởi dồn chứa sức mạnh trừng phạt mơ-tao Mơ-xây. Sức mạnh Đam Săn có được còn nhờ sự trợ lực của người vợ Hơ-nhí khi nàng ném trầu và thuốc cho chàng để sức lực tăng lên gấp bội.
    Đam Săn không hề đơn độc trong cuộc chiến vì danh dự này. Chính nghĩa thuộc về chàng khi các tù trưởng bạn hùng mạnh giúp chàng giành lại người vợ yêu quí . Đồng thời, chàng còn được sự trợ giúp của ông Trời. Người anh hùng sử thi luôn có mối quan hệ với lực lượng siêu nhiên. Trời đã giúp chàng đánh rơi áo giáp của mơ-tao Mơ-Xây. Khi không còn áo sắt, hắn thật thảm hại và hèn nhát khi lần lượt chạy trốn vào chuồng heo, chuồng trâu, khi sắp chết lại buông ra những lời hèn nhát. Ông Trời chỉ đóng vai trò hỗ trợ Đam San, còn chính chàng mới là người kết liễu kẻ thù, đòi lại danh dự, cướp lại người vợ được Trời tác thành. Giết mơ-tao Mơ-xây, chính nghĩa thuộc về Đam Săn. Chiến thắng được tôn vinh cùng với việc Đam Săn được sở hữu tất cả tài sản, dân làng, tôi tớ của hắn. Quyền sở hữu này là đặc trưng gắn với thời kì chuyển từ công xã thị tộc sang chiếm hữu nô lệ, làm nên vinh quang của người anh hùng. Bởi thế hình ảnh  trong sử thi được mô tả với qui mô hoành tráng : mọi người tình nguyện theo Đam Săn đông như bầy hươu nai, lố nhố như đàn kiến cánh, như bầy kiến đen, như đàn mối trắng. Chàng thêm quyền uy, thêm nhiều chiêng núm, chiêng bằng – của cải trở thành biểu tượng sức mạnh tuyệt đối của người anh hùng.
    Chính vì thế, để xứng đáng với chiến công cũng phải có một lễ ăn mừng chiến thắng thật kì vĩ. Lời kêu gọi của Đam Săn có sức mạnh hiệu triệu muôn người như một, bởi chàng đem lại niềm vinh quang chiến thắng, đem lại sự bình yên cho bến nước buôn làng. Lễ cúng mừng chiến thắng hào phóng cũng là để tôn vinh xứng đáng: “Hãy lấy bảy chum rượu, bảy con trâu đực, bảy con heo thiến để cúng cho Đam Săn này đã chiến thắng mơ-tao Mơ-xây, để ta được như cây cổ thụ cao vút”. Dấu ấn tâm linh sau chiến thắng cho thấy Trời đứng về phía Đam Săn. Không khí hội còn náo nức tưng bừng với chiêng trống vang lừng khiến vỡ cả sàn nhà, làm bay mái tranh lợp nhà, con khỉ con vượn mải nghe mà quên đi hái trái cây, những con voi và con tê giác cũng phải lắng nghe mà quên cả cho con bú. Nổi bật giữa đám đông hoan hỉ ấy tất yếu phải là người anh hùng Đam Săn – tù trưởng hùng mạnh ít ai sánh kịp. Ngay cả trong không khí yên bình của cộng đồng, vẻ đẹp ấy vẫn nổi bật từ ngoại hình đến hành động: mái tóc dài cuồn cuộn thả xuống một cái chiêng, uống rượu không bao giờ say, ăn uống không bao giờ thấy no. Hơn thế nữa, ngôn ngữ phóng đại của sử thi đã so sánh chàng ngang sức mạnh thần linh: “Oai linh vang đến tận thần núi phía Đông, đến tận thần núi phía Tây”. Hình ảnh Đam Săn sau chiến công này được mô tả phóng đại và như một điệp khúc vang vọng niềm tự hào về người anh hùng tiêu biểu của cộng đồng: “Và người ta bàn tán không cùng, rằng Đam Săn quả thật là một tù trưởng dũng cảm, không bao giờ chịu lùi bước. Chàng ta mang chăn choàng trên vai, tay đeo vòng, cầm gươm chạm trổ sắc bén…Đam Săn hùng cường ngay từ trong lòng mẹ”. Vẻ đẹp ấy chỉ có thể xuất hiện trong sử thi anh hùng, chỉ có ngôn ngữ sử thi mới đem lại những vẻ đẹp độc đáo đến thế!
    Đoạn trích đã đem lại cho ta những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đam Săn trong chiến công bảo vệ buôn làng, đem lại bình yên cho bến nước. Lời kể chuyện hấp dẫn cùng ngôn ngữ miêu tả khoa trương tạo được dấu ấn đặc sắc, chứa đựng những giá trị  nhân văn đặc trưng của sử thi. Sử thi anh hùng Đam Săn quả thật đã hình thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền của dân tộc Ê-Đê, thành di sản quí  báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử thi rực rỡ với vẻ đẹp “một đi không trở lại”./.

                                (T.H.N)
Tài liệu tham khảo:
    Từ cốt lõi là tục cướp phụ nữ, sử thi có mấy xu hướng sau đây:
    - Phóng đại sự việc lên nhiều lần, có thể vốn là một hành động cướp phụ nữ của một nhóm người, sử thi phóng đại lên thành một cuộc chiến tranh qui mô đồ sộ với lực lượng quân lính đông đảo, vũ khí ngút trời.
    - Kì vĩ hoá sự việc và nhân vật. Các nhân vật anh hùng có nhiều phép thuật do đó có thể có nhiều hành động phi thường có thể bay lên mây, lặn xuống đất, chém đổ núi, tát cạn sông.
    - Việc cướp phụ nữ không được miêu tả một cách độc lập, riêng biệt mà đặt trong bố cục chung về cuộc đời của người anh hùng. Gắn liền với việc cướp phụ nữ họ thường tiến hành các nhiệm vụ khác như: mở rộng lãnh thổ, nâng cao quyền uy, thu phục nhân lực, thu phục của cải, trả thù và đòi nợ.
        (Phan Đăng Nhật – Sử thi Tây Nguyên, một di sản văn hoá phi vật thể đặc sắc)

Bình giảng: Nỗi lòng Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), vị anh hùng dân tộc, “tấm lòng sáng tựa sao Khuê” (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ  biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo Kính Cảnh Giới . Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.
    Bảo Kính Cảnh Giới (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm “ưu quốc ái dân”. Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúngta hình dung một nhân cách lớn.
    Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:
    Rồi, hóng mát thuở ngày trường
    Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày “ăn không ngồi rồi” : tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ  nối thành một hơi thơ như tiếng thở dài. Rõ ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận  nhàn tản thật sự. Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã dồn nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mãnh liệt đầy sức sống:
    Hoè lục đùn đùn tán rợp trương
    Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương

Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hoè buông sắc  lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ đùn đùn,  vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ rợp.  Tầm nhìn trải từ  gần ra xa, theo qui luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan toả lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hoà cùng thiên nhiên đầy sức sống.
Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ lao xao đến dắng dỏi. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. Lao xao là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hưởng nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyễn Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hoà điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve . Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mĩ  đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hoà cùng niềm vui sự sống ? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn.
Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương

Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng mình theo triết lí nhà Nho “độc thiện kì thân”. Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm “ưu quốc ái dân”, là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu – xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân. Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn “trong sáng và đầy sức sống” (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân “khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu” chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.
Bảo kính cảnh giới – bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ của Ức Trai tiên sinh. Tấm lòng “sáng tựa sao Khuê” ấy vẫn toả sáng đến tận hôm nay!

Hình tượng cô Tấm

“ Trên quê hương ta biết bao nhiêu cô Tấm xinh đẹp đảm đang…”. Vâng, Cô Tấm từ trong quả thị từ xa xưa đến nay luôn gần gũi thân thuộc với mỗi tâm hồn Việt Nam.  Tấm Cám gắn với lời kể của mẹ, lời hát của bà “Bống bống, bang bang…” đưa ta vào không gian huyền ảo của câu chuyện cổ tích thần kì thấm đượm cảm hứng nhân văn này.
Tấm Cám đánh dấu sự rạn nứt trong các mối quan hệ xã hội, khi bắt đầu nảy sinh những xung đột mang mầm mống của cuộc đấu tranh giai cấp. Bởi thế câu chuyện chính là sự phản chiếu tâm hồn của những người bị áp bức mong muốn có một cuộc sống công bằng và tốt đẹp hơn. Triết lí dân gian thể hiện sinh động trong nội dung cuộc đấu tranh với mức độ ngày càng quyết liệt căng thẳng giữa cô Tấm hiền dịu với mẹ con mụ dì ghẻ độc ác. Triết lí ấy hàm chứa ước mơ của người bình dân : “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ”.
Bắt đầu cho những xung đột của tác phẩm là mối quan hệ dì ghẻ – con chồng, sự phân biệt đối xử giữa những đứa con không cùng chung dòng máu. Sự bất công thể hiện không chỉ ở những gì mà mụ dì ghẻ đối xử với Tấm kiểu “con yêu – con ghét”, mà mầm mống ấy đã nảy nở sang người em khác mẹ với cô: Cám được nuông chiều bởi sự thiên vị đã tất yếu bộc lộ sự ích kỉ, tranh giành phần hơn, xem việc Tấm bị thiệt thòi như một tất yếu. Mầm ác cứ lớn dần từ việc Cám lừa Tấm tranh giỏ cá để được chiếc yếm đỏ ban đầu cho đến việc hai mẹ con dì ghẻ dồn mọi việc nặng nhọc sang cho Tấm, hành hạ cô chăn trâu cắt cỏ đồng xa để bọn chúng ở nhà thực hiện những mưu mô đen tối. Điều đáng nói là trong mối quan hệ này, hầu như Tấm chưa hề có phản ứng gì mà chỉ biết bưng mặt khóc.
Bởi thế, dân gian đã sáng tạo ra hình tượng ông Bụt giúp Tấm giành lại những quyền lợi đáng ra cô phải được hưởng. Yếu tố ngẫu nhiên về con cá bống còn sót lại trong giỏ cho đến khi bống thành người bạn thân thiết của Tấm, cô gái mồ côi cô đơn,  đã chuyển sang ý nghĩa triết lí. Người hiền lành như Tấm phải được hưởng sự công bằng, đó là lẽ trời. Thế nhưng, mầm thiện luôn bị chèn ép bởi cội rễ cái ác cứ lớn dần. Mẹ con dì ghẻ đã tước đoạt luôn niềm vui của cô bé khi dùng mẹo lừa Tấm đi xa để bắt bống ăn thịt. Từ xung đột này, câu chuyện đã mang ý nghĩa một xung đột chiều sâu : sự an phận đồng nghĩa với việc để cho cái ác tiếp tục hoành hành. Một lần nữa Bụt xuất hiện để an ủi Tấm, con gà cũng giúp cô tìm xương cá bống…
Câu chuyện phát triển theo hướng xung đột càng trở nên gay gắt: hai mẹ con Cám hưởng thụ niềm vui hội hè còn Tấm phải âm thầm tủi hổ gạt qua khát khao được đi chơi để hoàn thành công việc mà dì ghẻ bày ra hành hạ cô. Lúc này bên cạnh Tấm có sự xuất hiện của đàn chim sẻ trợ giúp. Xương cá bống bây giờ biến thành quần áo đẹp giúp cô đi xem hội. Có thể nói chính nhân dân đã tạo ra các yếu tố thần kì để bênh vực cho những quyền lợi chính đáng cho cô gái đảm đang, Tấm xứng đáng được hưởng sự công bằng.
Những tưởng cuộc đời Tấm sẽ sang trang sau khi thử vừa chiếc hài đánh rơi, được đón về cung vua, giống như cô bé Lọ Lem được hưởng hạnh phúc cùng hoàng tử trong câu chuyện cổ nước ngoài. Thế nhưng truyện Tấm Cám đã chuyển sang một loạt những xung đột mới gay gắt hơn. Sự đố kị, lòng ích kỉ đã khiến cho hai mẹ con Cám không buông tha Tấm. Chúng không chấp nhận hạnh phúc đến dễ dàng với cô gái xinh đẹp dịu hiền. Tội ác của mẹ con Cám phát triển ở mức độ tinh vi hơn, bắt đầu từ một thủ đoạn lừa đảo đánh đúng lòng hiếu thảo của Tấm. Tấm chết vì chính sự ngây thơ  không mảy may đề phòng dã tâm của mẹ con Cám. Nhưng cũng bắt đầu từ thời điểm này, hàng loạt quá trình hoá thân thần kì của Tấm đã thể hiện một nhận thức mới, gắn với triết lí của nhân dân về cuộc đấu tranh chống lại cái ác. Có lẽ việc tạo ra những hình tượng bất tử là một truyền thống độc đáo của truyện cổ tích thần kì Việt Nam, khẳng định sức sống mạnh mẽ và ý chí tranh đấu của người bình dân vượt lên các thế lực bạo tàn.
Mạch truyện gắn với các tình tiết hoáthân kì ảo của nhân vật. Mặc dù Cám được vào cung vua, thế nhưng Tấm mới là người giành trọn được tình yêu thương của ông vua trẻ. Nàng lần lượt biến thành chim vàng anh, cây xoan đào quấn quít bên chồng. Chim vàng anh là biểu tượng của một tình yêu khắng khít, cây xoan đào là biểu tượng dịu dàng của người vợ chỉ mong muốn được chăm sóc chồng. Tính chất xung đột càng lúc càng gay gắt hơn khi lần lượt Cám giết chim vàng anh, chặt cây xoan đào, phá tan mong muốn sum vầy hạnh phúc của Tấm. Bởi thế, nỗi đau đớn vì hạnh phúc bị cướp đi đã biến thành tiếng rít căm hờn của Tấm - khung cửi: “Cót ca cót két. Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra!”. Không còn là một cô Tấm tủi thân tủi phận ngày nào nữa, nàng đã bắt đầu cho cuộc đấu tranh giành lại hạnh phúc của mình. Cuộc chiến chốn hoàng cung lại tiếp diễn với phần thắng tạm nghiêng về Cám, khi khung cửi bị đốt thành tro và tro bị vứt trả về với đất bụi dân dã. Thế nhưng điều kì diệu về sức sống mãnh liệt của Tấm bây giờ mới thật sự bắt đầu.
Tấm được trở về sống với bà lão hàng nước nghèo khổ nhân hậu, trong hình hài quả thị thơm thảo như tấm lòng của cô. Để rồi từ trong quả thị, cô bước ra trong hình hài đẹp đẽ nhất, với tất cả vẻ dịu dàng đảm đang, quán xuyến tảo tần: dọn dẹp nhà cửa,  cơm lành canh ngọt. Tấm hiện thân cho vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam, rất bình dị và trong sáng. Vẻ đẹp ấy tất yếu chỉ xuất hiện trong cuộc sống dân dã, gắn bó những tâm hồn thuần hậu chất phác trong dáng vẻ quê mùa, trong những công việc thổi cơm, rót nước, gói bánh, têm trầu. Vẻ đẹp ấy thấm được tinh thần nhân văn của người lao động.
Miếng trầu têm cánh phượng là dấu ấn gặp gỡ giữa Tấm với vua – người chồng chung thủy không nguôi nhớ về cô gái thảo hiền nết na xinh đẹp. Lẽ công bằng được lập lại, lần này không do bàn tay của Bụt giúp, mà chính từ phẩm chất củaTấm, từ sự sống bất tử của cái thiện vượt lên mọi mưu mô độc ác. Vua không phải đại diện của thế lực thống trị mà chỉ là hiện thân của một lẽ công bằng. Cung vua và cuộc sống dân dã ấy không quá cách xa như những câu truyện cổ tích về sau.
Không dừng lại như kết thúc của sách giáo khoa, lời kể dân gian còn tiếp diễn với việc Cám bị trừng phạt vì chính những tham vọng của mình, mụ dì ghẻ cũng phải đền tội vì chính tội ác mụ gây ra cho người con chồng. Có lẽ đó là một kết thúc hợp lí vì cái ác không thể tồn tại để gây hoạ tiếp tục cho những người lương thiện… Đó cũng là thái độ của nhân dân kiên quyết diệt trừ cái ác, đứng về cái thiện, thể hiện khát khao cháy bỏng về lẽ công bằng ở đời. Đó cũng là công lí và đạo lí dân gian, làm nên vẻ đẹp trọn vẹn của câu chuyện cổ tích thần kì Tấm Cám./.                
                (T.H.N)

Triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ Nhàn.



    Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
    Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để  bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
    Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :
    Một mai, một cuốc, một cần câu
    Thơ thẩn dù ai vui thú nào

    Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí  của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ  làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
    Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:
    Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề  khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử  không bận tâm những trò khôn - dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất  đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng  bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí  « vô vi » của đạo Lão, « thoát tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình.  Quan niệm về chữ  Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :
 Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui

        (Thói đời)
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và  lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như  giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn  tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính./.T.H.N

Tây Tiến (*) - hiện thực về người lính những năm đầu kháng chiến


Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, Tây Tiến của Quang Dũng vẫn luôn làm xôn xao cõi lòng bởi những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi…
Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bóc từng câu từng chữ mà thấm vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đã chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi đầu kháng chiến - với tâm tư in bóng trong dáng hình sông núi:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi/Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm hơi/Dốc lên  khúc khuỷu dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây súng ngửi trời/Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…
Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa - những chi tiết thường gặp trong thơ cổ - nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa cái bồng bềnh sương khói chơi vơi được tác giả phác họa bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ở không gian rừng núi mà còn mở ra một không gian - tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà - ngút ngát chí tang bồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chút hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt - song chất hào hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến - anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ…
Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người "ra đi bảo tồn sông núi" đã lấn át cái bi lụy buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha "một đi không trở lại". Phải chăng, với tinh thần "coi cái chết nhẹ tựa lông hồng" mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc nhưng giọng điệu rất bình thản: "anh về đất?". Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, người lính đã nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn vạn lần những gian khổ, hy sinh?
Bài thơ không cường điệu hóa cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khỏe khoắn của toàn bài có những từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập không khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong bài thơ theo quan điểm xã hội học thiển cận thì sẽ chẳng nhìn thấy cái đẹp của Tây Tiến. Cái đẹp của bài thơ viết ra từ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ.   
. Trần Hà Nam
(*) giảng dạy trong chương trình Văn học lớp 12.

Tây Tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi


Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ


Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa


Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm


Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành


Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Phù Lưu Chanh 1948
. Quang Dũng

Thứ Ba, 20 tháng 10, 2009

TÌNH NGHĨA TRONG CA DAO - Lớp 10

Ca dao ra đời từ ngàn xưa, gắn với cuộc sống trăm đắng ngàn cay nhưng đậm tình nặng nghĩa. Những câu hát phản chiếu đời sống tâm hồn, đời sống tình cảm của người bình dân, chứa đựng những đạo lí dân gian sâu sắc.
Những đề tài ca dao bắt nguồn từ thực tế cuộc sống lao động sản xuất và những sinh hoạt đời thường, từ những rung động tinh tế trước thiên nhiên, từ đời sống thuần hậu chất phác của người lao động. Chính vì thế, những hình ảnh ca dao mộc mạc nhưng mang theo bao hơi thở tâm tình, những nỗi niềm thân phận. Toát lên từ những lời ca là ý thức về phẩm giá, nhân cách, là những tình cảm thương nhớ đợi chờ, là khát vọng được sẻ chia, là ước ao về cuộc sống thủy chung mặn nồng.
Ta hãy nghe những lời tình tự trong mô-tip thân em quen thuộc của ca dao:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Không ngẫu nhiên đâu, khi những ví von về người phụ nữa lại gắn với hình ảnh “tấm lụa đào” gợi cảm, vừa mềm mại dịu dàng như bản tính cố hữu của người phụ nữ, vừa tươi tắn sắc đào tươi như sức sống mãnh liệt của tâm hồn. Thế nhưng tấm lụa cao quí ấy đã trở thành món hàng trao đổi – phất phơ giữa chợ. Thân phận người phụ nữ ngày xưa là thế, mỏng manh, phụ thuộc không biết đi đâu về đâu giữa dòng đời trong đục khó phân. Bởi thế, lời ca dao như một tiếng than, ngậm ngùi trong câu hỏi vọng lên biết vào tay ai? Dẫu phải rơi vào những nghịch cảnh như vậy, những lời ca về thân em vẫn toát lên một niềm kiêu hãnh về phẩm giá:
Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi, nếm thử mà xem
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
Trong lời ca dao này, chứa đựng cái nhìn dân gian quanh việc đánh giá hình thức - nội dung, hiện tượng - bản chất qua một so sánh trực quan với củ ấu gai nhỏ bé. Vẫn là cách nói nhún nhường thân em, nhưng kín đáo bộc lộ vẻ đẹp “ruột trong thì trắng” đối lập với vẻ bề ngoài đen đủi xấu xí. Lời nhắn nhủ “ai ơi nếm thử mà xem” vừa như trách móc, vừa như thiết tha mong mỏi ai ơi kia sẽ đến với nhau vì cái “ngọt bùi” nồng nàn tình nghĩa. Không chỉ là tiếng nói tỏ bày tấm lòng, bài ca dao còn ẩn chứa nỗi niềm cay đắng thân phận, bởi lẽ người đời đôi khi lại phũ phàng thờ ơ với những vẻ đẹp thực chất mà đuổi theo cái hào nhoáng bề ngoài. Bởi thế, những tâm tình cất lên như một sự cảnh tỉnh, một lời nhắc nhở con người đến với nhau bằng tấm lòng.
Ca dao có khả năng chắt lọc nghệ thuật sống từ chính những cái cụ thể gần gũi trong đời sống hàng ngày để tạo ra những liên tưởng gắn với thế giới tâm hồn phong phú tinh tế, với những tình cảm phức tạp của con người. Một vị khế chua mang theo bao xót xa cho tình duyên không trọn vẹn. Những nghịch cảnh bất công trong cuộc đời cũ luôn là lực cản khiến cho đôi lứa phải chia lìa. Trong những trái ngang ấy, lời ca dao cất lên bao thiết tha nhung nhớ:
… Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng
Mình ơi! có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời
Tâm sự “mình –ta” biết bao quyến luyến! Mô-tip mình - ta bao giờ cũng đọng lại những ân tình sâu nặng trong đời sống tình cảm của người bình dân. Tình yêu đôi lứa được sánh với ánh sáng mặt trăng, mặt trời, đặc biệt là các liên tưởng gắn với sao Hôm sao Mai –tuy hai mà một thật khắng khít. Từ đó hướng tới những giá trị cao cả bất tử của tình nghĩa dành cho nhau. Và cũng thật thú vị biết bao khi ánh sao kia lại biến thành “sao Vượt” băng qua bao trở lực đón nhận tình cảm nồng nàn. Ca dao đã diễn tả nỗi lòng hướng về nhau thật tinh tế:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai…
Ta nghe như có bao dùng dằng thương nhớ trong từng lời nồng nàn. Khăn thương nhớ ai, đèn thương nhớ ai… từng động tác, từng cái nhìn như mang theo cái bồn chồn lo lắng cho duyên tình trắc trở. Nhịp thơ dàn trải, mong manh. Có thể hình dung ra từng cử chỉ, từng động tác dồn nén nhớ thương. Lời ca dao gợi lên bao suy ngẫm về hoàn cảnh trớ trêu của người phụ nữ không tự định đoạt được duyên tình của mình. Bức tranh tâm trạng ấy vừa được tạo nên bằng những hình ảnh nối kết khăn – đèn – mắt, vừa là điệp khúc tâm trạng đầy day dứt “… thương nhớ ai” – hàm chứa trách móc giận hờn . Khoảnh khắc người con gái đối diện chính mình cũng là lúc ta nhận ra chiều sâu tâm hồn đằm thắm thủy chung, nhận ra nỗi lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Bài ca dao này cũng như một lời ca dao tương tự : đêm qua ra đứng bờ ao/ trông cá cá lặn trông sao sao mờ…. Mỗi vật được nhắc đến như chứa đựng trong đó cả tấm tình hướng về nhau. Nhịp lục bát khép lại tâm tư trĩu nặng:
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên mọi bề
Lời ca dao kín đáo như oán như than, hé mở bao bất công ngang trái, trắc trở tình duyên. Không gian cảnh vật như chứa đựng nỗi niềm con người, thành tâm trạng cất lên lời nhắn nhủ tha thiết. Nhưng có thể thấy cùng với niềm tin son sắt, tình cảm nhớ nhung, không bao giờ ca dao lại đem đến cảm giác ủy mị yếu đuối mà luôn đau đáu một tấm òng chung thủy.
Ngay trong những hoàn cảnh đắng cay chua xót, trong sự cách xa chia lìa, tấm lòng người bình dân dành cho nhau thật bền bỉ:
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
Có xa nhau đi nữa ba vạn chín nghìn ngày mới xa
Hình tượng “muối mặn – gừng cay” từ lâu đã gắn với cuộc sống bình dị của người dân quê: “Tay bưng đĩa muối chấm gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Cái mặn nồng của ân tình, cái cay cực cùng nếm trải đã kết lại những tấm lòng. Thời gian dù có cách xa, vị đời có thể nhạt nhẽo, nhưng những ân tình đã thành gừng cay muối mặn thì không có một trở lực nào có thể làm lạt phai. Ân tình ấy được đo bằng thời gian đời người ba vạn chín nghìn ngày – trăm năm, đã trở thành lẽ sống đậm đà tình nghĩa thủy chung của dân tộc. Thật cụ thể và sâu sắc biết bao những lời lẽ mộc mạc mà chắc nịch chi li như vậy, Tình yêu, lòng chung thủy đã gắn kết nên đôi lứa, giúp con người vượt qua qui luật khắc nghiệt của tạo hoá. Độ nồng nàn của tình cảm, sức mạnh của tình yêu vượt lên cả cái chết.
Tình nghĩa trong ca dao phong phú , tinh tế và sâu sắc, trở thành nền tảng đạo lý và vẻ đẹp tâm hồn của dân tộc. Mỗi lời ca dao mang theo bao tâm tư, khát vọng, giúp con người vượt lên nghịch cảnh, sống với nhau trọn vẹn nghĩa tình. Cũng nhờ vậy, những vẻ đẹp cuộc đời đi vào ca dao đáng yêu, đáng quí biết bao. Sức sống ca dao mãi mãi trường tồn cùng dân tộc, gắn với vẻ đẹp của những tâm hồn nhân hậu, cao cả, trong sáng của người bình dân.
T.H.N

ĐÀN GHI TA CỦA LORCA - Bình thơ

ĐÀN GHI TA CỦA LORCA
Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghita
* F.G. Lorca
những tiếng đàn bọt nước
Tây-Ban-Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây-Ban-Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi-ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...

(Khối vuông Rubic – NXB TPM – 1985)
Tôi đã yêu bài thơ này bằng tình yêu nguyên thủy của một chàng trai mới lớn, vì cái chất lãng tử cứ hiện ra trên từng dòng thơ. Tưởng như Thanh Thảo đã thật sự có những khoảnh khắc hoá thân, nhập vai để sống tận cùng chất nghệ sĩ của G. Lorca. Trong một tập thơ mà anh từng tuyên bố : « Tôi thích tỉnh rụi, tỉnh khô, tỉnh như sáo ...» thì bài thơ như một hiện hữu đối lập của Khối vuông rubic. Nhưng đến giờ, ngẫm kỹ lại thì bài thơ vẫn rất tỉnh vì đã đem lại cho người đọc một chân dung thật nhất, rõ nhất về G.Lorca – nhà thơ, nhạc sĩ tài hoa của xứ sở bò tót và đấu sĩ.
Thanh Thảo là người có biệt tài ám ảnh người khác bằng cái tỉnh rụi như không, khi viết những câu thơ tưởng không có gì mà nếu muốn bắt chước anh viết thử như vậy thì chẳng khác nào nàng Đông Thi bắt chước Tây Thi nhăn mặt để tự biến mình thành ngớ ngẩn. Từ một Đêm trên cát viết về Cao Bá Quát bắt đầu với những mắt cá ngủ mê trong điện Thái Hoà - một ẩn dụ để hiện lên sau đó một nhân vật đầy suy tư về thời đại, rất xưa mà rất mới – cho đến một nỗi niềm ta như chú nghé thèm đám cỏ trong một bài thơ nho nhỏ Đất Cù Trâu cũng vẫn là một ẩn ức được diễn tả một cách rất quái theo kiểu Thanh Thảo. Dài dòng như vậy vì sau này tôi mới đọc anh nhiều để nghiệm ra, còn lúc ấy dù rất ngạo mạn hay phê bậy bạ vào các trang thơ của các tiền bối những lời chê phạm thượng (tất nhiên chẳng loại trừ anh), tôi đã phải ghi ngay một chữ « Hay ! » bên lề trang sách ngay khi vừa đọc « những tiếng đàn bọt nước ...». Ám ảnh sắc màu đỏ gắt, âm thanh li-la li-la li-la cứ theo tôi suốt một thời gian dài (sau này tôi mới kịp hiểu li-la còn là tên một loài hoa theo tiếng Tây Ban Nha). Để rồi, theo bước chân chàng lãng tử , theo câu thơ lãng tử, tôi chứng kiến một sự sống G.Lorca đi lang thang về miền đơn độc, đi như người mộng du, tôi thả hồn theo tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy. Tưởng chừng tôi thấy rõ G.Lorca đối diện với họng súng mà tâm hồn còn mải miết hướng về bầu trời cô gái ấy, không màng cái chết cận kề. Tôi theo tiếng ghi-ta, theo hành trình Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghi-ta màu bạc... Tất cả làm thành một cảm tính thơ không thể cắt nghĩa cho đến tận bây giờ đã hai mươi năm trôi qua vẫn còn nguyên vẹn. Giọt nước mắt vầng trăng làm nên phút thăng hoa âm thanh bất diệt li-la li-la li-la cứ ngân mãi, hoà quyện cả màu sắc, âm thanh, ánh sáng, sự sống thành một thể thống nhất. Định Mệnh – lá bùa trôi vào xoáy nước khép lại một cuộc đời người chiến sĩ chống phát-xít kiên cường, chàng ném trái tim mình vào lặng im bất chợt, nhưng tiếng đàn – hồn thơ vẫn như lan toả trên dòng sông cuộc sống vĩnh cửu, mà mỗi giọt – âm - thanh ấy tan hoà thành sắc li-la tím mãi màu tưởng vọng.
Thanh Thảo đã từng viết : « Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên » (Lorca trong tôiMãi mãi là bí mật, NXB Lao động, 2004). Một nhà thơ đã có một Lorca trong lòng như vậy, nên Đàn ghi-ta của Lorca có thể xem như là một gặp gỡ đẹp tạo thành phút « bùng nổ » của năng lượng sáng tạo Thanh Thảo. Với những bài thơ như vậy, dường như mọi lời bình giải bỗng thành... vô duyên !

Quy Nhơn, 31 tháng 8 năm 2005
TRẦN HÀ NAM
(Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn, Bình Định)

Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão - Lớp 10

Âm vang của thời đại Đông A với những chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm, ba lần đánh bại Nguyên - Mông đã in dấu trên nhiều trang viết của các nhà thơ đương thời. Phạm Ngũ Lão - danh tướng nhà Trần "đánh đâu thắng đó" cũng ghi lại những xúc cảm của mình qua Thuật Hoài - tác phẩm thể hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.
Hoành sóc giang sơn cáp* kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Bài thơ chữ Hán , vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ lớn, thể hiện khí phách nhà thơ - dũng tướng. Thi ngôn chí là nội dung tư tưởng của đề tào Thuật hoài, Vịnh hoài, cảm hoài... Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi không khí thời đại bừng bừng "sát Thát". . Bài thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư tưởng Nho giáo trong mẫu hình người anh hùng cá nhân phong kiến nhưng trước hết nó là nỗi lòng của người "một thời tuy đã nên tướng giỏi - chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng lập công dương danh luôn là điều ám ảnh những kẻ sĩ, đại trượng phu thời phong kiến, đi liền với các tước phong công, hầu, khanh, tướng. Nhưng trong bài thơ này, con người đã được phác bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Câu khai đề của bài thơ đã tạo một tư thế rất đẹp của con người. Bản dịch vung giáo, múa giáo đều không ổn vì lập tức nó sẽ phá vỡ đi đối trọng con người - không gian. Một bên là giang sơn - sông núi quê hương rộng lớn; một bên là con người hoành sóc - cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Thế "hoành" của ngọn giáo khiến tầm vóc con người như vươn lên ngang tầm sông núi. Hình ảnh người lính vệ quốc toát lên vẻ bình thản hiên ngang. Không những thế, trong mối tương quan con người - thời gian còn làm nổi bật ấn tượng về sự bền bỉ , uy dũng của người trai thời đại. Bởi lẽ con người không chỉ đứng đó trong thoáng chốc mà đã trải qua "mấy thu" rồi. Câu thơ xác lập một tư thế con người lồng lộng giữa đất trời, ngang tầm vũ trụ. Không những thế, cả đoàn quân cùng chung tư thế ấy :
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Câu trên là hình ảnh, câu dưới là thần thái con người. Người chiến sĩ cầm ngang ngọn giáo kia với tam quân đã tạo thành một tường thành vững chắc, im phăng phắc mà khí thế "xung thiên". Câu thơ còn gợi về một ý thơ của Quảng Nghiêm thiền sư : "Nam nhi tự hữu xung thiên chí". Tư thế sẵn sàng xung trận đã hình thành tứ thơ thật đẹp "tỳ hổ khí thôn ngưu". Tuy rằng cách diễn ý chưa thoát khỏi lối ước lệ tượng trưng quen thuộc của thơ xưa nhưng để hiểu cặn kẽ cũng không phải là điều đơn giản. Theo cảm quan thẩm mỹ cổ điển, câu thơ gợi lên khí phách đoàn quân quyết chiến làm át cả sao Ngưu - vì tinh tú sáng chói trên trời. Nhưng cách hiểu "ba quân như hổ mạnh nuốt trôi trâu" đem đến cảm nhận cụ thể hơn về sức mạnh của quân đội còn non trẻ đương đầu với đội quân Nguyên - Mông hùng mạnh và thiện chiến, dường như có hàm ý ngợi ca tự hào mạnh mẽ hơn. Bởi lẽ tỳ hổ là cách so sánh mang đậm chất võ của người thống lĩnh ba quân. Trong sự liên tưởng ấy, hổ và trâu hoàn toàn không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của câu thơ mà làm rõ hơn cho dũng khí của quân đội nhà Trần.
Nhưng hai câu thơ đầu mới chỉ là nền để nhà thơ bộc bạch lòng mình :
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Đây mới là điều canh cánh bên lòng của người dũng tướng, gắn với bổn phận của kẻ làm trai thời phong kiến . Bao đời nay, nợ công danh từng là niềm ám ảnh khôn nguôi với những người làm trai trong thời phong kiến. Phải chăng, một người anh hùng như Phạm Ngũ Lão cũng không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn "công hầu kha nh tướng" ấy? Giả sử có như vậy cũng là lẽ thường tình, nhất là trong thời đại giá trị con người được tạo nên từ những chiến công - thời thế tạo anh hùng. Câu thơ bộc lộ niềm khao khát lớn, một điều băn khoăn chưa trả với đời của người trai làng Phù Ủng năm nào. Tất cả nỗi niềm của ông được thổ lộ trong sự đối sánh với tấm gương Vũ Hầu Gia Cát Lượng thuở xưa. Bậc mưu thần, danh sĩ nổi tiếng thời Tam Quốc, người đã xả thân vì cơ nghiệp nhà Thục, vì chúa Lưu Bị, nhắm mắt chưa yên công cuộc "ủng Lưu phản Tào". Tất cả đã rõ, tâm niệm của Phạm Ngũ Lão nào khác nguời xưa khi ông mong muốn làm nên công nghiệp phò tá cho vua, thực hiện lý tưởng trí quân trạch dân cao cả của bề tôi trung thành tận tuỵ. Nỗi thẹn của người anh hùng toả sáng một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về nghiệp lớn muôn đời, vì sự bình yên của sơn hà xã tắc.
Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái quốc hoà nhịp trọn vẹn trong tình cảm, tâm hồn nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước ra sức".Tâm nguyện của Phạm tướng quân đã phản chiếu tâm tư của bao người trai thời Trần : ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ sự gắn bó cá nhân với cộng đồng - dân tộc - đất nước. Xúc cảm hào hùng toả sáng trong hình tượng thơ, đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về con người thời đại Đông A.
Trần Hà Nam
* Văn bản hiện nay trong SGK phân ban là "kháp kỷ thu"

XUẤT DƯƠNG LƯU BIỆT - Lớp 11

Phan Bội Châu - tác phẩm tiêu biểu

Xuất dương lưu biệt


Sinh vi nam tử yếu hi kỳ
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Bài thơ Xuất dương lưu biệt được sáng tác năm 1905, khi Phan Bội Châu từ biệt các bạn đồng chí lên đường tìm đường cứu nước.Tác phẩm là tiếng nói hăm hở của một trang nam nhi quyết tâm hoàn thành sự nghiệp phục quốc.
Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo truyền thống "thi dĩ ngôn chí" của thi ca phương Đông, đó cũng là dấu vết rõ nhất của con người từng theo đuổi sự nghiệp công danh, thập niên đăng hoả học chữ Thánh hiền của Phan Bội Châu. Giọng điệu, khí phách cho đến hình tượng thơ còn mang đậm dấu ấn của thi pháp trung đại nhưng về mặt tư tưởng đã đánh dấu một sự vượt thoát ra khỏi khuôn khổ suy nghĩ của một trí thức Hán học, đoạn tuyệt với tư tưởng Nho giáo về căn bản.
Có thể phân tích bài thơ theo cấu trúc : Tiền giải - Hậu giải quen thuộc của thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường:
1. Tiền giải:
Dịch thơ: Làm trai phải lạ ở trên đời - Há để càn khôn tự chuyển dời - Trong khoảng trăm năm cần có tớ - Sau này muôn thuở há không ai (Tôn Quang Phiệt dịch).
Khi viết nên những dòng thơ này, Phan Bội Châu đã bước sang tuổi 38 - lứa tuổi đã qua bao thăng trầm, chuẩn bị chớm bước vào tuổi "tứ thập nhi bất hoặc" - tự tin ở chính mình. Làm trai "tam thập nhi lập", hẳn một người đã từng đậu Giải nguyên năm Canh Tý (1900) như Phan Bội Châu không phải vướng bận băn khoăn về ý nghĩa làm trai như Giải nguyên Nguyễn Công Trứ thuở xưa, mặc dù cách nói cũng cùng một kiểu: "Thông minh nhất nam tử - Yếu vi thiên hạ kỳ" (Chí nam nhi). Ông Giải San lúc ấy thừa điều kiện để đi theo con đường tiền nhân Uy Viễn tướng công, nhưng cuối cùng con đường của Phan Bội Châu lại theo một ngã rẽ khác hẳn. Chữ "kỳ" của Nguyễn Công Trứ bó hẹp trong "bút trận" - thi cử đỗ đạt làm quan, phụng sự vô điều kiện cho triều đình phong kiến. Phan Bội Châu ít nhiều chịu ảnh hưởng của quan niệm làm trai thời phong kiến nhưng trong cách nói vẫn khẳng định một cách đầy tự hào về ý thức cá nhân mạnh mẽ của mình.
Một nguời đã từng ý thức với câu thơ tâm đắc "Lập thân tối hạ thị văn chương" (Viên Mai) hẳn không chấp nhận bó mình theo quan niệm phong kiến! Bởi vậy, trong phần tiền giải này, khi nhấn mạnh vào vai trò nam tử, Phan Sào Nam chẳng qua chỉ mượn một quan niệm có sẵn nhằm khẳng định cho cái bản ngã đội trời đạp đất hào hùng của chính mình thôi, không hề có một dấu ấn của con người bổn phận theo lý tưởng làm trai phong kiến.
2. Phần hậu giải:
Dịch thơ: Non sông đã chết, sống thêm nhục - Hiền thánh còn đâu học cũng hoài - Muốn vượt biển Đông theo cánh gió - Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Điều cốt tủy trong suy nghĩ, tình cảm của nhà thơ gửi cả vào phần hậu giải này, là bức thông điệp mà Phan Bội Châu gửi gắm lại bạn bè trước giờ lưu biệt. Đúng ra, với đề tài "lưu biệt", trong thơ xưa vốn dĩ hay nói về cảm xúc bịn rịn lưu luyến hay nỗi hận sầu của người trai "chí chưa thành, danh chưa đạt". Vậy mà Phan Bội Châu đã dành hai câu luận để nói về thời thế một cách sâu sắc: ông đạt sự sống chết, vinh - nhục của một đời trai trong mối liên hệ với vận nước, bằng tất cả nỗi đớn đau của người dân mất nước. Câu thơ thật thấm thía! Nguyên văn câu thơ chữ Hán nói về hiền thánh không hề có một chút e dè khi ông phê phán gay gắt cả một nền học cũ đã lỗi thời bằng thái độ đoạn tuyệt dứt khoát. Nước mất - dân ngu, đó chính là lời kết tội của Phan Bội Châu với cả chế độ phong kiến và giáo lý Khổng - Mạnh đã mục ruỗng. Chính sự bảo thủ ấy đã tiếp tay cho kẻ thù đặt ách thống trị lên đất nước. Khác với một Nguyễn Công Trứ bi quan yếm thế khi nếm trải "Vào trường danh lợi vinh liền nhục" để rồi ao ước "làm cây thông đứng giữa trời mà reo"; khác với một Tú Xương từng nguyền rủa chế độ thi cử và kẻ sĩ cùng thời "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo - Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi" mà vẫn lận đận lều chõng mong được chen chân vào rồi cay cú "Tám khoa không khỏi phạm trường qui"; Phan Bội Châu đã xác định con đường khác hẳn. Hai câu kết hào hùng hiện rõ tư thế bậc đại trượng phu dám phá bung cả khuôn khổ lề thói cũ, đem đến một quan niệm làm trai mới mẻ:
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Con người nhà thơ hiện ra giữa không gian vũ trụ mới hào hùng, phóng khoáng làm sao! Cái hào sảng của trường phong - trận gió dài, cơn gió mạnh, cái mênh mông của đông hải - gắn với chí lớn con người muốn tát cạn biển đông đã dồn nén vào một chữ "khứ" - gắn với hành trình ra đi ngùn ngụt hùng tâm tráng chí. Vang vọng trong câu thơ hào khí của bậc nữ lưu Triệu Trinh Nương thuở nào: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá kình ở biển Đông, chứ không cúi đầu làm thê thiếp kẻ khác". Tâm nguyện cứu nước dù gần hai ngàn năm trước hay thời Phan Bội Châu cũng giống nhau ở ý chí không chịu cúi đầu làm nô lệ một cách nhục nhã. Phan Sào Nam đã bộc lộ ý chí cứu nước qua hình tượng thật đẹp kết lại bài thơ: Ngàn con sóng bạc nhất tề cùng bay lên, cả đất trời như đã hoà theo quyết tâm cứu nước của người anh hùng. Con đường của Phan Bội Châu là con đường hành động, thái độ của Phan Bội Châu là thái độ không cam chịu chờ thời. Không một chút do dự băn khoăn, bài thơ là dự báo về những việc kinh thiên động địa trong tương lai của người anh hùng khiến cho thực dân Pháp và bọn bán nước phải run sợ kinh hoàng.
Khép lại Xuất dương lưu biệt, người đọc nhận ra một khí phách, một nhân cách của một nhân vật lỗi lạc đầu thế kỷ XX. Bài thơ thổi một luồng sinh khí vào văn chương thời đại, mở ra những trang đầy hào khí của văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, tiếp nối tinh thần bất khuất của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập của thế kỷ trước, có giá trị động viên bao thế hệ yêu nước nối tiếp người chiến sĩ Phan Bội Châu.

Tản mạn: Cảm xúc Quy Nhơn mưa

Chỉ còn chưa đầy mười ngày nữa, tôi sẽ xa Qui Nhơn. Bây giờ mới thấy thật thấm thía cảm xúc xa quê hương thật sự. Tính ra, đây mới là lần xa quê thứ hai của tôi. Lần thứ nhất vào 1976 giã biệt mảnh đất gắn bó tuổi thơ Cầu Đơ, Hà Trì, Hà Tây về quê cha đất tổ. Và lần này, sau ba mươi năm lại tiếp tục một chuyến đi ra Hà Nội. Chưa biết sẽ thành đạt, nối chí cha ông hay không nhưng trước phút chia tay mảnh đất gắn bó với mình, sao mà không nao nao trong dạ?Hà Nội với tôi giờ đây cũng chỉ nhạt nhoà như ký ức Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ: “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo…” – là chốn kinh kỳ trong tâm thức một anh chàng tỉnh lẻ. Hà Nội trong ký ức là mùa thu đầy mưa khi tôi tròn 20 tuổi, lóng ngóng vụng về đạp xe bên người bạn gái mới quen lang thang khắp các phố phường, lạ lẫm đưa mắt ngắm những hàng cây sũng nước, những mặt hồ mịt mờ trắng xoá. Hà Nội của những lần tập huấn ngắn ngày, lang thang cùng người bạn xứ Cẩm Thành trên đê Yên Phụ, uống chén chè Thái vỉa hè, ra tới hồ Gươm ngủ kín mít trong chiếc áo ấm trên ghế đá như hai gã du thủ du thực chính hiệu. Là một đêm say cạn mười lăm bầu Làng Vân cùng những người bạn nghệ sĩ bốc trời trong quán rượu Hồ Tây sau lưng trường Chu Văn An, đàm đạo văn võ cùng một đệ tử chân truyền môn phái Vịnh Xuân để vỡ lẽ ra sau cái vẻ bụi bặm của anh là một chất sĩ phu Bắc Hà lãng tử. Và chỉ có thế! Hà Nội còn là hơn một tháng lăn lóc ngủ bẹp trên sàn của văn phòng công ty thằng bạn, ngóc đầu dậy không nổi vì cái tính khí thất thường ngày nắng ngày mưa của Hà nội lúc giao mùa. Là đêm chong mắt trắng, râu tóc lởm chởm miệt mài ôn thi, bụng đói meo, ăn uống qua loa cơm chỉ, mì tôm và chống chọi sự mỏi mệt bằng những hộp C sủi. Hà Nội của mấy tháng trước chen chúc xe buýt đề phòng móc túi, của buổi tối loanh quanh mấy thầy trò tưởng đi lạc trong khu phố cổ . Và Hà Nội của những ngày sắp tới chưa biết ra sao khi phải xa vợ con gần hai năm trời đằng đẵng, chỉ có dịp loanh quanh về lại dịp Tết, dịp hè.Nhưng bây giờ, tôi sắp xa Qui Nhơn thân yêu của tôi, xa cái ổ chuột hè nóng hầm hập, đông lạnh căm căm mà cả nhà tôi cũng đã gắn bó suốt mười năm trời, làm dân núi ngay giữa thành phố Qui Nhơn đang từng ngày biến đổi. Tôi đã quen với cái lặng lẽ ban đêm để quên những âm thanh ồn ã của xe lam, xe máy, xích lô ồn ào lúc 4 – 5 giờ sáng khi còn sống dưới phố, giữa trung tâm thành phố. Tôi chưa hình dung được những ngày sắp tới khi phải chuyển đổi nếp sinh hoạt quen thuộc ngày ngày sẵn có vợ chăm, chiều chiều cả nhà quây quần bên nhau quanh mâm cơm sang cuộc sống của một anh chàng đi ở trọ. Không quên được cảm giác khi đêm đêm ngồi trước màn hình vi tính dõi theo diễn đàn của học trò, của cư dân mạng Bình Định. Làm một gã nghiện nét chính cống. Cách đây nửa tháng thôi, những học trò của tôi đã giã biệt thầy bước chân vào mái trường Đại học ở Sài Gòn. Bây giờ thì thầy lại đi ra Hà Nội, cả ngàn cây số. Cũng lạ chả hiểu tại sao mình lại đa cảm thế! Hay do bây giờ trời nổi cơn giông. Lại nhớ đến thơ bạn mình : “Trời nổi cơn giông mùa hạ - Áo em màu tím u buồn…”. Có phải duyên số không, khi người con gái áo tím ngày xưa ấy đã là của mình, là mẹ của hai thằng cu vừa lì vừa ngố. Và cơn giông lại tới, mai mốt anh đi xa ba mẹ con, áo em có trầm tư một màu tím u buồn? Mưa giông nửa đêm, ầm ì dai dẳng tiếng sấm âm âm. Nhà nhà đã đóng cửa, cũng chẳng mấy ai ngoài phố giờ này. Lại nhớ một thời bạt mạng văn thơ! Chẳng hiểu vì sao mà duyên số văn chương cứ vận vào mình, mà rõ ràng mình là một kẻ bất tài gặp vận. Trời xui đất khiến để làm tới hai chức phó chủ nhiệm của hai câu lạc bộ văn chương tỉnh nhà. Anh em lại “ưu ái” cho cái chân dẫn chương trình những đêm sinh hoạt thơ văn. Chẳng hiểu từ lúc nào, mình đã thôi la cà quán xá để mong ngóng những đêm 14 có CLB Xuân Diệu để được gặp anh em làm thơ văn đàm đạo. Cũng chẳng hiểu vì sao mình còn duy trì và thậm chí lôi kéo các em học sinh tới với thơ văn trong cái thời buổi “văn chương hạ giới rẻ như bèo” này? Thậm chí vợ còn than thở mình làm việc “ăn cơm nhà vác ngà voi”, đi “thổi tù và hàng Tổng”. Viết lách thì chả ra hồn, vậy mà có dịp bù khú cùng thi hữu là cảm thấy vui vui, tăng hai tăng ba sa đà chuyện trên trời dưới đất có khi đến sáng mới về. Có hôm nửa đêm phóng xe ào ào dưới ánh đèn vàng cao áp mà chẳng bao giờ cảm thấy bất an. Hình như Qui Nhơn vốn bình yên và sẵn chiều lòng những chàng có máu thơ văn , kể cả những lúc ngồi la cà xóm ga cũng vẫn thấy anh em xích lô, khuân vác và các tay anh chị giang hồ hoá ra lại cũng dễ thương đáo để. Chắc còn lâu lắm, mình mới lại được sống trong không khí đậm chất thơ, chất hào phóng giữa những anh em văn nghệ Qui Nhơn. Nhớ làm sao giọng ngâm thơ anh Ba Phất, anh Năm Bửu, mái tóc rũ lên rũ xuống của Lê Hoài Lương lúc ngồi uống rượu mà hiếm khi gục ngã cuối cùng. Nhớ cả những dịp gặp các em nhóm QNC – Quinhoncity mời làm người thử rượu “kiểm định chất lượng” ở quán Suối Trầu của văn sĩ , bay mất gần một lít Bàu Đá thứ thiệt. Quên sao bà chị A.M, ông anh Vân Hiền lặn lội từ Phù Cát vô là có dịp chứng kiến anh bồ sùng sục vì ghen, đòi ăn thua đủ với anh em nghệ sĩ. Mà bà chị cứ vô tư khơ khớ cười, lại ôm đàn ca hay hơn bao giờ hết những bài tình bất hủ của Trịnh Công Sơn để cuối cùng lời ca giọng hát chiến thắng anh chàng trót dại yêu bà chị nghệ sĩ. Còn nhiều, còn nhiều lắm bao kỷ niệm Qui Nhơn. Và cả những lo lắng bồn chồn không tránh khỏi. Ông bà dạy phụ mẫu tại đường bất khả viễn du, nhưng biết làm sao khi thời gian không cho phép chần chờ. Vả lại lần này đi cũng là đem lại chút niềm vui cho cha, vốn kỳ vọng con cháu nối chí cha ông, xứng đáng là cháu nội cụ cử Hà Trì, là cháu của ông chú tiến sĩ viện sĩ viện Hàn lâm NewYork! Tự cười mình lỡ mang tiếng con cháu của nhánh họ Trần đỗ đạt cao nhất, nên đâm ra phải gánh trọng trách có danh gì với núi sông! Nhưng tất cả mới chỉ khởi đầu, bốc phét ba hoa không khéo lại lâm vào cảnh “Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng Tổng”! Chỉ tự nhủ lòng mình: dù đi đâu xa cũng xứng đáng là một người mang dòng máu Bình Định, là dân xứ Nẫu để không hổ thẹn nơi đất khách xứ người. Chỉ lo cho mẹ sức khoẻ kém, lại cứ thương thằng út mà héo hon cả dạ.Mưa tạnh rồi! Thôi đừng đa cảm nữa! Sấm rì rầm chưa biết sẽ báo hiệu điều chi?
27.9.2006

(Lưu từ ngoisaoblog.vn/tranhanam)